Tên di sản : Thác Đồng Quan

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : 180/QĐ - UBND

Giới thiệu

Cảnh quan chung:

Núi Bù Mùn nằm trong dải núi trung lưu sông Chu chạy dọc từ Sầm Nưa (Lào) về đến Như Xuân. Phần lớn núi này đều được cấu tạo bằng đá riôlit hay granit, chúng thường có đỉnh nhọn và sườn dốc hơn các núi khác quanh vùng. Đây cũng là những khu vực núi uốn nếp hoặc núi cao trung bình uốn nếp dạng khối, được cấu tạo bằng nhiều loại đá khác nhau, đi từ các trầm tích (đá phiến, đá vôi, cát kết, sỏi kết v.v...) đến các đá phun trào (Xpilit, riolit, bazan), các đá xâm nhập (granit), các đá biến chất (như đá hoa). Chúng nằm xen kẽ nhau, có khi như lồng vào nhau, và điều đó làm cho phong cảnh thay đổi không ngừng và là niềm vui nhiều khi thật đột ngột đến với người đi đường. Rừng ở đây vẫn còn khá nhiều, nhất là vùng tây Như Xuân và điều quan trọng là có nhiều cây gỗ quý như chò chỉ, táu, dẻ, vàng tâm, lim, gõ. Dạng rừng đã mang nhiều dấu hiệu của rừng nhiệt đới ẩm thực sự, khác hẳn với rừng Việt Bắc.

Bên cạnh những loại núi đá nêu trên thì ở đây có những loại đá bazan bị phong hóa trong điều kiện khí hậu nóng ẩm cho một lớp đất dày đến hơn 10m, màu đỏ nâu hoặc đỏ sẫm, là loại đất phì nhiêu nhất trong tất cả các loại đất thuộc miền đồi núi. Hiện tại, chúng ta đã xây dựng ở đây những nông trường lớn nhất miền Bắc như nông trường Yên Mỹ - Như Xuân, nông trường Đông Hiếu và Tây Hiếu, trồng cà phê, chè, cây ăn quả, kể cả cao su; đồng thời lại tận dụng các đồng cỏ để chăn nuôi. Tuy nhiên, trong quá trình xâm thực nước có thể tìm thấy ở loại đất vụn bở và dày này môi trường hoạt động dễ dàng, do đó một khi lớp phủ thực vật mất đi mà không có biện pháp tích cực bảo vệ thì tình trạng xói mòn và đất bị đá ong hóa có thể xảy ra và gây hậu quả nghiêm trọng. Toàn dãy núi Bù Mùn có hai dạng địa hình hình chất, địa mạo như vậy.

Thác Đồng Quan phát nguồn từ rất nhiều những khe nước ở đỉnh núi Bù Mùn, chảy xuống với độ cao trên 1000 mét so với mực nước biển. Ở tầng cuối cùng của dòng thác này dưới chân núi Bù Mùn cũng đã có độ cao tơi 700m so với mực nước biển (cao hơn khu trung tâm hành chính của xã tới 200m). Với một độ cao như vậy, nên vào giữa những ngày hè oi ả, chỉ cần đi đến khu vực chân thác, cảm giác nóng nực trong mỗi chúng ta không còn nữa. Bởi ở đây là cả không gian của rừng núi đại ngàn với cây xanh cây cổ thụ rợp bóng cùng với thác nước và nhiều khe, suối trên độ cao lớn đã làm cho khí hậu trở nên mát mẻ, dễ chịu và hết sức trong lành.

Núi Bù Mùn là một trong số những dãy núi cao nhất ở phía tây nam huyện Như Xuân. Hướng núi ở đây chạy từ tây bắc đến đông nam. Đây là khu vực rừng nguyên sinh và rừng đầu nguồn còn được bảo vệ khá nguyên vẹn, nó đã từng được mệnh danh là một địa điểm có nhiều loại gỗ quý ở nước ta như lim, lát, dổi, vàng tâm, nghiến, táu và sến v.v...Trước năm 1945 và ngay cả trong chín năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp (1946 – 1954), rừng núi nơi đây vẫn còn khá nhiều các loại thú lớn như: voi, hổ, báo, hoãng, hươu, nai, gấu và sơn dương v.v...nhưng cho đến nay, do biến động của việc khai thác rừng và tình trạng săn bắn tự do, thiếu kiểm soát của con người nên trong thời gian qua đã làm cho sự phong phú của các loài thú quý giảm đi rõ rệt. Tuy vậy, cho đến nay, nhờ những chính sách bảo vệ rừng đầu nguồn của nhà nước được thực thi một cách tích cực, hiệu quả, cộng với việc nghiêm cấm săn bắt và khai thác, phá rừng làm nương rẫy trong hơn hai thập kỷ trở lại đây, đã góp phần làm cho những cánh rừng nguyên sinh phía tây nam huyện (trong đó có rừng Bù Mùn) được hồi sinh nhanh chóng. Cho đến nay, rừng đã giăng đầy và phủ kín, màu xanh của cây cối và thảm thực vật rải đều trên các dãy núi từ cao xuống thấp. Và các loài thú cũng đã có điều kiện để quần tụ, phát triển trở lại như hoãng, lợn rừng, cầy hương, khỉ, nhím v.v...Cứ mỗi mùa đông tới, các cánh rừng ở dãy Bù Mùn đã trở thành địa điểm lý tưởng cho nhiều loài chim từ phương bắc bay về trú ngụ để tránh rét, đã góp phần làm cho không gian rộng lớn của rừng núi nơi đây trở nên sinh động và giàu sức sống hơn bao giờ hết. Cũng nhờ rừng được hồi sinh mà thác, suối, khe mùa nào cũng có nước. Và cho đến bây giờ, nguồn nước sinh hoạt của các bản làng ở Hóa Quỳ nói chung và Đồng Quan nói riêng chủ yếu vẫn được lấy về từ dãy núi Bù Mùn (xưa là bằng máng gỗ, luồng, nứa, còn hiện nay thì được dẫn nước bằng ống nhựa).

Vì độ cao trên 1000m so với mực nước biển cho nên đỉnh núi Bù Mùn quanh năm mây trời giăng phủ. Ngày nắng thì thường thấy mây trắng vờn bay với nhiều hình hài sinh động, ở tít tận trên cao. Còn khi trời sắp nổi dông là những lúc đám mây đen ùn ùn kéo tới che kín cả trái núi; rồi khi mưa ập đến, rừng núi như tối sẫm một màu. Các bản làng ở gần chỗ Thác Đồng Quan, được nghe những âm thanh của mưa nguồn, tiếng lộc cộc của đá lăn, cùng tiếng rào rào từ thác nước chảy, tất cả những âm thanh đó đã tạo cho không gian ở đây như những khúc nhạc có nhịp điệu, tiết tấu, cao thấp khác nhau. Và nhất là những cơn mưa lớn trong đêm, những âm thanh và tiết tấu từ rừng núi, khe, thác vọng về còn làm cho con người, ở những làng bản gần đó có một cảm giác xốn xang đến kỳ lạ. Nhưng cứ sau mỗi lần mưa chỉ khoảng từ 1 đến 2 tiếng đồng hồ, những âm thanh ầm ào và dữ dội từ thác nước, hay khe suối lại nhanh chóng trở lại bình thường. Nếu du khách đến đây trong ngày đẹp trời, lúc nắng lên, đứng từ xa nhìn về phía rừng núi Bù Mùn, ai cũng cảm nhận được một không gian xanh thẳm, bao trùm giàu sức sống lại hiện ra trước mắt. Sở dĩ khu rừng Bù Mùn và Thác Đồng Quan có sự hấp dẫn, cuốn hút được ngày một đông du khách gần xa đến thăm thú, du ngoạn là vì rừng còn bảo tồn tương đối nguyên vẹn; mặt khác, rừng núi Bù Mùn và Thác Đồng Quan còn là một vùng thắng cảnh độc đáo, nên thơ, nên nhạc cùng với một hệ sinh thái đa dạng, phong phú, vì vậy mà bất kỳ ai khi đến đây cũng đều muốn dừng lâu để thưởng thức, khám phá. Hiện nay, do đường giao thông được mở mang thuận lợi, cho nên từ thành phố Thanh Hóa lên, hay từ các địa phương trong, ngoài huyện tới, chỉ cần vài tiếng đồng hồ, hay trọn một ngày từ buổi sáng đến chiều là du khách có thể lần lượt vượt lên được các tầng thác để lên tận đỉnh núi Bù Mùn mà ngắm nhìn cả không gian rừng núi đại ngàn bao la, hùng vĩ của miền đất tây nam huyện Như Xuân ký tú, thơ mộng và mến yên.

Dòng chảy của Thác Đồng Quan

Đến chân Thác Đồng Quan là chúng ta đã đến ngay vùng cửa rừng dưới chân núi Bù Mùn. Ở đây, dưới chân thác cuối cùng là một dòng suối đưa nước chảy về mãi sông Tràng. Trước cuộc hành trình vượt thác, chúng ta được nghe ông trưởng làng Đồng Quan – người dân tộc Thái, “kiêm hướng dẫn viên du lịch”, giới thiệu ngắn gọn về hệ thống khe, suối Thác nước, cảnh quan sinh thái cũng như về sự phong phú, giàu có của hệ động thực vật ở núi Bù Mùn. Sau đó du khách bắt đầu cuộc hành trình vượt thác.

Để vượt được những tầng thác trên độ cao hơn 1000m cũng phải mất 4 tiếng đồng hồ. Và, người vượt thác phải có sức khỏe thì mới hoàn thành được cuộc hành trình khám phá đầy thú vị này. Còn những người sức khỏe yếu thì chỉ leo lên đến tầng thác thứ 6, vì các tầng thác trên cao và hiểm trở, nhưng đứng ở tầng tác này du khách cũng có thể ngắm được cảnh quan thiên nhiên mang đậm chất thơ của núi cao và những cánh rừng già.

Từ chân thác ngược lên chừng khoảng chừng 300m chúng ta sẽ đến một tầng thác đặc biệt mà nhân dân địa phương gọi là Thác Tiên. Thác này theo truyền thuyết cho biết, là mỗi khi hạ giới, các tiên nữ thường tắm và nô đùa ở đó. Còn bây giờ là chỗ “Tắm tiên” cho các thiếu nữ người Mường, người Thái v.v...một cách thuận lợi và kín đáo hơn. Theo người dân địa phương thì con gái nếu được tắm trực tiếp ở Thác Tiên, da dẻ sẽ mịn màng, trắng trẻo và xinh đẹp hơn!

Từ Thác Tiên ngược lên độ khoảng 50m, chúng ta sẽ gặp một tầng thác cao độ 12 – 15m mà dân địa phương gọi là Thác Trượt. Sở dĩ gọi là Thác Trượt vì từ trên đỉnh thác, bất kể ai cũng có thể trượt theo dòng nước trên sườn đá xuống dưới hố nước rộng ngay dưới chân thác một cách dễ dàng, giống như người tham gia trượt băng tuy���t. Du khách có thể ngồi trên các phiến đá bằng phẳng ở đỉnh Thác Trượt, để được tận mắt chứng kiến những chàng trai, cô gái thi nhau trượt dưới tầng thác một cách ngoạn mục.

Từ Thác Trượt, theo con khe phía trái để ngược lên khoảng 70m thì gặp một tầng thác nằm dưới những tán cây rừng mọc um tùm mà người dân địa phương gọi là Thác Hẩm. Từ Thác Hẩm leo lên 50m nữa thì gặp một thác nước khác gọi là Thác Đất Đỏ (vì nước thác chảy tràn trên thân núi đất đỏ nên gọi tên vậy). Đây cũng là tầng thác cuối cùng trên dãy núi Bù Mùn (tính từ dưới lên).

Còn từ Thác Trượt, theo con khe phía tay phải ngược lên khoảng 70m thì gặp Thác Tà Sáy (nghĩa của tiếng Thái gọi là Sàn Ruột). Thác này có chiều cao tới 30m; xung quanh có nhiều cây cổ thụ có kích thước khá lớn, có cây phải ba bốn người ôm mới kín được vòng tròn. Theo người địa phương giải thích, sở dĩ thác có tên là Tà Sáy vì đi qua chỗ có rất nhiều cây ráy nước.

Từ Thác Tà Sáy đi ngược tiếp khoảng 40 – 50m nữa thì gặp Thác Tà Phục, đến đây cũng là kết thúc các tầng thác trong cuộc hành trình.

Từ Thác Đất Đỏ, hay Thác Tà Sáy cứ theo đường khe nước mà đi ta sẽ đến được đỉnh của dãy núi Bù Mùn. Hai khe nước này quanh năm ngày tháng không lúc nào cạn nước. Lòng khe và hai bờ khe, chỗ nào cũng có các phiến đá, tảng đá lộ thiên với nhiều hình hài đẹp, gợi cảm.

Khi du khách đến được đỉnh núi Bù Mùn – nơi giáp ranh giữa địa bàn 3 xã Thanh Phong, Thanh Lâm và Hóa Quỳ, mà nhân dân địa phương vẫn gọi một cách hình ảnh đó là “Vùng ngã ba Đông Dương” hay là “Đuôi của ngã ba Đông Dương”; tại đây có đường mòn để đến địa bàn xã Thanh Phong của huyện Như Xuân.

Đứng ở trên đỉnh cao Bù Mùn, ngay giữa mùa hè nóng nực, chúng ta vẫn có cảm giác mát lạnh như ở các vùng Đà Lạt, Sa Pa của đất nước. Và cũng từ đây phóng tầm mắt nhìn về bốn hướng chúng ta thấy cả đất trời, rừng núi ở đây thật hùng vĩ và nên thơ.

Chỉ có leo lên đến đỉnh Bù Mùn thì chúng ta mới có thể hình dung được sự phong phú, đa dạng của khu vực rừng đầu nguồn này, chúng ta được tận mắt nhìn thấy nhiều cây gỗ quý có kích thước lớn; gặp nhiều loài cây và hoa rừng khoe sắc khác nhau, đặc biệt nhiều loài lan rừng mọc trên những cây cổ thụ và xòe cánh hướng về phía mặt trời. Và, trong âm vang của núi rừng chúng ta còn được nghe tiếng nước chảy, tiếng chim kêu, tiếng vượn hót, tất cả tạo thành một bản nhạc rừng được hòa tấu một cách tự nhiên làm rung động lòng du khách.

Hình ảnh Thác Đồng Quan

Thác Đồng Quan

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật